Mới đây trên mạng lan truyền clip, hình ảnh sinh con “thuận tự nhiên” cùng với dòng thông tin “ước từ nay tất cả các mẹ đều sinh con giống tổ tiên của chúng mình khi chưa xuất hiện BV ( bệnh viện-PV ) để những đứa trẻ ra đời không phải trong tay của những người xa lạ”. Đáng chú ý nội dung này được hàng ngàn người like và comment với nhiều ý kiến khác nhau, trong đó có cả những ý kiến bày tỏ sự ngưỡng mộ, đồng tình với phương pháp sinh con “thuận tự nhiên” này.
Tai biến sản khoa có thể xảy tới bất kỳ lúc nào
Theo bác sỹ Nguyễn Phương Tú, Giảng viên Bộ môn Sản phụ khoa, Đại học Y Hà Nội, thời gian mang thai, quá trình sinh con và giai đoạn hậu sản sau đó là những sự kiện đáng nhớ trong cuộc đời của mỗi người phụ nữ. Hiện nay, nhu cầu được chăm sóc tiền sản, được cung cấp đầy đủ thông tin về sức khoẻ, dinh dưỡng và tư vấn về những yếu tố nguy cơ hậu sản sẽ giúp các bà mẹ yên tâm trong suốt quá trình mang thai và cả sau sinh.
“Hiện nay một số phụ nữ có thể muốn sinh con “thuận tự nhiên” và lựa chọn phương thức sinh nở không cần sự trợ giúp của y tế, có thể một vài trường hợp may mắn thành công mà không có biến chứng. Tuy nhiên, đa phần sẽ có những nguy hiểm không kiểm soát được hay tai biến sản khoa có thể xảy tới bất kỳ lúc nào, những biến chứng đó có thể diễn ra ngay lập tức ảnh hưởng tới tính mạng cả sản phụ và thai nhi. Cách sinh con “thuận tự nhiên” tiềm ẩn nguy cơ chảy máu, nhiễm trùng sẽ dẫn tới những hệ luỵ lâu dài” – bác sỹ Nguyễn Phương Tú khuyến cáo.
Theo bác sỹ Nguyễn Phương Tú, nếu một phụ nữ mang thai không được quản lý thai kỳ thì sẽ khó đánh giá được sự phát triển của mẹ và thai, những bệnh lý có thể xuất hiện trong thời gian mang thai như tiền sản giật, tiểu đường thai kì, những bất thường ở thai có thể được sàng lọc và phát hiện sớm thông qua siêu âm và các xét nghiệm sàng lọc tiên tiến. Nếu một sản phụ quyết định sẽ sinh con theo phong trào “thuận tự nhiên” thì sẽ dễ đặt bản thân và em bé vào hoàn cảnh nguy hiểm. Bất kỳ một ca sinh nở bình thường nào cũng có thể xuất hiện những trường hợp khẩn cấp bởi trong quá trình chuyển dạ và những giờ đầu sau sinh là khoảng thời gian cần được theo dõi y tế sát sao và chặt chẽ, bất cứ một dấu hiệu nào bị bỏ sót cũng sẽ khiến tình trạng sản khoa và hậu sản trở nên nặng nề.
Mọi phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có quyền được chăm sóc y tế toàn diện
“Đơn cử như việc bỏ qua thăm khám không phát hiện được có sự bất tương xứng giữa đầu thai nhi và khung chậu người mẹ, việc đường kính lưỡng đỉnh của thai vượt quá đường kính lọt qua eo trên sẽ khiến thai bị mắc kẹt và không thể xuống để có cơ chế đẻ đường dưới an toàn, nếu chậm trễ có thể dẫn tới ngạt thai và một loạt các biến cố sau đó như mất máu ở mẹ và suy thai cấp. Hay như trường hợp ngôi ngang khiến thai không có cơ chế đẻ đường dưới nhưng vẫn cố sinh sẽ khiến tai biến kẹt vai, gãy xương chi xảy ra ở thai. Với những trường hợp rau tiền đạo sau khi vỡ ối hay rách màng ối thường xuất hiện tình trạng mất máu cấp dẫn tới tình trạng mẹ bị đe doạ và tim thai suy nhanh chóng, nếu không được cầm máu khẩn cấp và bù máu đường truyền thì hậu quả sẽ rất nguy hiểm cho cả mẹ và thai” – bác sỹ Nguyễn Phương Tú nói.
Chưa kể, với những trường hợp mẹ có bệnh lý kèm theo như bệnh lý tim mạch, huyết học sẽ khiến cung lượng máu cũng như áp lực dòng máu của mẹ trong khi chuyển dạ dễ xảy ra tai biến, ảnh hưởng tới tính mạng. Nhiều trường hợp cần phải chuyển qua sinh mổ cấp cứu. Nếu như không có nhân viên y tế ngay tại đó thì rất dễ bỏ qua những nguy cơ tiềm tàng.
“Mọi phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có quyền được chăm sóc y tế toàn diện và cần nhận được sự chăm sóc chất lượng từ y tế, dinh dưỡng, vaccine, tinh thần trong suốt thời gian mang thai, sinh nở và sau sinh. Hiện nay một trong những nguyên nhân chính gây tử vong do các biến chứng trong quá trình sinh nở và sau đó đến từ những nơi có nguồn lực thấp, khó tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế toàn diện hay thiếu kiến thức về chăm sóc sau sinh, thứ tự bao gồm các dấu hiệu xuất huyết, tăng huyết áp, nhiễm trùng và các nguyên nhân gián tiếp. Để hạn chế tỷ lệ biến chứng này, y tế các nước buộc phải nâng cao nhận thức cho mọi phụ nữ mang thai và những người xung quanh để mọi bà mẹ và em bé sẽ có được một môi trường chăm sóc y tế an toàn và khoa học” – bác sỹ Nguyễn Phương Tú nhấn mạnh.